Bước tới nội dung

Thảo luận Thành viên:42.115.180.30

Nội dung trang không được hỗ trợ ở ngôn ngữ khác.
Thêm đề tài
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bình luận mới nhất: 5 tháng trước bởi 42.115.180.30 trong đề tài Thảo luận:Cái chết của Mèo Béo#Nguồn RFA

Thảo luận:Cái chết của Mèo Béo#Nguồn RFA

[sửa mã nguồn]

@Minhtri02101996Khangdora2809: Tôi bị rơi vào dãy IP cấm nên thảo luận ở đây. Minhtri02101996 đang thảo luận về nguồn RFA sao lại xóa cả nguồn của Tinh Châu nhật báo? Việc Minhtri02101996 yêu cầu "ghi rõ chứng cứ chứng minh việc liên quan của 2 vấn đề" là không thực sự thỏa đáng, vì đây là trách nhiệm của RFA, không phải của Wikipedia, Wikipedia chỉ là nơi dẫn lại nguồn. Nếu Minhtri02101996 cho rằng nguồn RFA không đáng tin cậy, vui lòng nêu luận điểm của Minhtri02101996 ở Wikipedia:Thảo luận, đọc thêm Thảo luận Wikipedia:Danh sách nguồn đáng tin cậy/Tiếng Việt#RFA?.42.115.180.30 (thảo luận) 06:16, ngày 12 tháng 5 năm 2024 (UTC)Trả lời

@Trần Nguyễn Minh Huy: Cảm ơn Huy.42.115.180.30 (thảo luận) 08:04, ngày 12 tháng 5 năm 2024 (UTC)Trả lời
"The Code"
Đĩa đơn của Nemo
Phát hành29 tháng 2 năm 2024 (2024-02-29)
Thể loại
Thời lượng3:00
Hãng đĩaBetter Now
Sáng tác
  • Benjamin Alasu
  • Lasse Midtsian Nymann
  • Linda Dale
  • Nemo Mettler
Sản xuất
  • Lasse Midtsian Nymann
  • Benjamin Alasu
  • Tom Oehler
  • Wojciech Kostrzewa
  • Pele Loriano
  • Nemo Mettler
  • Nikodem Milewski
Thứ tự đĩa đơn của Nemo
"Falling Again"
(2024)
"The Code"
(2024)
Video âm nhạc
"The Code" trên YouTube
Thụy Sĩ "The Code"
Eurovision Song Contest 2024
Quốc giaThụy Sĩ
Nghệ sĩNemo
Ngôn ngữEnglish
Thành tích tại vòng chung kết
Kết quả bán kếtthứ 4
Điểm ở vòng bán kết132
Kết quả chung cuộcthứ 1
Điểm chung cuộc591
Thứ tự xuất hiện
◄ Watergun (2023)   
Video trình diễn chính thức
"The Code" (Bán kết 2) trên YouTube
"The Code" (Chung kết) trên YouTube

"The Code" là một bài hát của ca sĩ người Thụy Sĩ Nemo, được Better Now Records phát hành vào ngày 29 tháng 2 năm 2024. Nemo mô tả đây là một bài hát kể chi tiết trải nghiệm của Nemo trong quá trình chấp nhận bản dạng phi nhị nguyên của mình. Ca khúc do Nemo và ba nhạc sĩ khác sáng tác. Bài hát đại diện cho Thụy Sĩ trong Eurovision Song Contest 2024, giành chiến thắng với 591 điểm và mang cúp về cho quốc gia này lần đầu tiên kể từ năm 1988.

Bối cảnh và sáng tác

[sửa mã nguồn]

"The Code" do Benjamin Alasu, Lasse Midtsian Nymann, Linda Dale và Nemo Mettler sáng tác.[1] BBC mô tả bài hát như một "vở opera EDM drum and bass" và cho rằng điệp khúc của bài được lấy cảm hứng từ Cây sáo thần của Wolfgang Amadeus Mozart.[2] Trong thông cáo báo chí, Nemo phát biểu rằng bài hát trình bày chi tiết về quá trình nhận thức của Nemo về bản dạng phi nhị nguyên, trong đó, việc nhận ra mình phi nhị nguyên đã mang lại cho Nemo "sự tự do" và bằng cách tham gia Eurovision Song Contest, Nemo có thể "đứng lên vì toàn thể cộng đồng LGBTQIA+".[3]

According to Nemo, when accepting that they didn't "feel like a man or a woman... I had to break a few codes";[4] the song references binary code, which is meant to represent the binary classification of genders. Mettler also declares within the song that they have found their "kingdom come", refusing to conform to traditional gender classification norms and stick to only one musical style.[5]

Initial rumours of Nemo being picked to represent Switzerland in the Eurovision Song Contest 2024 were reported on 25 February 2024 when Swiss news outlet Blick put out reports that they had been selected.[6][7] Three days later, the song title was rumoured to be titled "The Code".[8] On 29 February, they were officially announced to be Switzerland's representative for the contest.[9]

Bảng xếp hạng

[sửa mã nguồn]
Thành tích trên bảng xếp hạng của "The Code"
Bảng xếp hạng (2024) Vị trí
cao nhất
Litva (AGATA)[10] 45
Thụy Sĩ (Schweizer Hitparade)[11] 22

Lịch sử phát hành

[sửa mã nguồn]
Lịch sử phát hành và định dạng của "The Code"
Quốc gia Thời gian Định dạng Nhãn Ct.
Nhiều quốc gia 29 tháng 2, 2024 Better Now [12]

Tham khảo

[sửa mã nguồn]
  1. ^ Stojanović, Nikola (29 tháng 2 năm 2024). “Listen to Nemo with 'The Code' – the Swiss entry for Eurovision 2024”. ESCBubble (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2024.
  2. ^ Savage, Mark (10 tháng 5 năm 2024). “Eurovision final: Evil Kate Bush, fiddlesticks and 5 other things to watch for”. BBC. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2024.
  3. ^ “SWITZERLAND: NEMO has "The Code" to win Eurovision 2024!”. OGAE Greece. 29 tháng 2 năm 2024. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2024.
  4. ^ Dell'Anna, Fabio (29 tháng 2 năm 2024). “Nemo à l'Eurovision: «Je veux montrer que la Suisse est diversifiée»” [Nemo at Eurovision: “I want to show that Switzerland is diverse”]. Le Matin (bằng tiếng Pháp). ISSN 1018-3736. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2024.
  5. ^ Tudor, Ruxandra (1 tháng 5 năm 2024). "I'm done playing the game" — Nemo shares their non-binary journey through the "The Code" lyrics”. Wiwibloggs (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2024.
  6. ^ Imhof, Michel (26 tháng 2 năm 2024). “Nemo fährt für die Schweiz zum ESC” [Nemo is going to the ESC for Switzerland]. Blick. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2024.
  7. ^ Waarden, Franciska van (26 tháng 2 năm 2024). “🇨🇭 Switzerland: Nemo to Eurovision 2024?”. Eurovoix (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2024.
  8. ^ Argyropoulos, Dimitris (28 tháng 2 năm 2024). “Switzerland: Is "The Code" the title of Nemo's entry for Eurovision 2024?”. Eurovision News | Music | Fun (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2024.
  9. ^ Adams, William Lee (29 tháng 2 năm 2024). “Nemo will sing "The Code" for Switzerland at Eurovision 2024”. Wiwibloggs (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2024.
  10. ^ “2024 19-os savaitės klausomiausi (Top 100)” (bằng tiếng Litva). AGATA. 10 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2024.
  11. ^ "Swisscharts.com – Nemo – The Code" (bằng tiếng Thụy Sĩ). Swiss Singles Chart. Truy cập 11 tháng 3 năm 2024.
  12. ^ “The Code - Single by Nemo”. Apple Music (US) (bằng tiếng Anh). 29 tháng 2 năm 2024. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2024.


Nemo
Thông tin nghệ sĩ
Tên khai sinhNemo Mettler
Sinh3 tháng 8, 1999 (25 tuổi)
Biel/Bienne, Thụy Sĩ
Thể loại
Nghề nghiệp
  • rapper
  • ca sĩ
Nhạc cụ
  • giọng hát
  • violin
  • piano
  • trống
Hãng đĩaBakara Music[1]
Websitenemothings.com

Nemo Mettler (sinh 3 tháng 8, 1999), được biết đến với tên Nemo, là một rapper và ca sĩ người Thụy Sĩ, Nemo còn chơi violin, piano và trống.[2] Nemo đại diện Thụy Sĩ và chiến thắng Eurovision Song Contest 2024 với bài hát "The Code".[3][4]

Sự nghiệp

[sửa mã nguồn]

Nemo Mettler was born in Biel/Bienne, in the Canton of Berne.[5] Their father is Markus Mettler, an entrepreneur and inventor, and their mother is Nadja Schnetzler, a journalist.[6] They have a sister named Ella who collaborates with them in the artistic direction of projects.[7] Nemo approached music from the age of three, learning to play the violin, piano and drum; from age 9 to 13 they studied opera singing.[8] From age 13 they began to approach rap, performing at a number of Swiss contests, performing songs they wrote themself. They later settled in Berlin to pursue their music career.[9]

Nemo's 2015 EP Clownfisch reached number 95 in the Swiss charts. In 2017, Nemo released a single "Du",[10] which reached number 4 in Switzerland.[11] On the second season of The Masked Singer Switzerland in 2021/2022, Nemo was unmasked as a panda and finished in fifth place.[12]

Nemo biểu diễn ở Madrid trong PrePartyES 2024

On 29 February 2024, Nemo was announced as the Swiss representative in the Eurovision Song Contest 2024 with the song "The Code", and performed in the second semi-final of the contest, on 9 May.[13] Nemo won the Eurovision final on 11 May with 591 points, becoming the first non-binary performer to win the contest.[14][15]

Đời tư

[sửa mã nguồn]

Vào tháng 11 năm 2023, Nemo công khai là người phi nhị nguyên giới trong một bài báo trên SonntagsZeitung. Trong bài báo này, Nemo cũng nói rằng Nemo thích được nhắc đến bằng tên riêng thay vì đại từ trong tiếng Đức[16] và dùng đại từ they/them trong tiếng Anh.[17]

Danh sách đĩa nhạc

[sửa mã nguồn]

Đĩa mở rộng

[sửa mã nguồn]
Danh sách đĩa mở rộng
Tựa đề Chi tiết Vị trí xếp hạng cao nhất
SWI
[11]
Clownfisch 95
Momänt-Kids
  • Phát hành: 21 tháng 10, 2017[19]
  • Nhãn: Bakara Music
  • Định dạng: Tải nhạc, phát trực tuyến
Fundbüro
  • Phát hành: 17 tháng 11, 2017[20]
  • Nhãn: Bakara Music
  • Định dạng: Tải nhạc, phát trực tuyến
Whatever Feels Right
  • Phát hành: 9 tháng 9, 2022[21]
  • Nhãn: Tự phát hành
  • Định dạng: Tải nhạc, phát trực tuyến
"—" chỉ một sản phẩm thu âm không được xếp hạng hoặc không được phát hành ở lãnh thổ đó.

Đĩa đơn

[sửa mã nguồn]

Là nghệ sĩ chính

[sửa mã nguồn]
Tựa đề Năm Vị trí xếp hạng cao nhất Album hoặc đĩa mở rộng
SWI
[11]
LTU
[22]
"Himalaya" 2016 27 Momänt-Kids
"Style"
(với Marc Amacher)
2017 Đĩa đơn không nằm trong album
"Du" 4 Fundbüro
"Usserirdisch" 64
"Crush uf di" 2018 77 Đĩa đơn không nằm trong album
"5i uf de Uhr" 2019 31
"365"
"Girl us mire City"
"Dance With Me" 2020
"Video Games"
"Hailey"
(with Chelan)
2021 Orange & Blue
"Certified Pop Queen" Đĩa đơn không nằm trong album
"Chleiderchäschtli"
(với KT Gorique [fr])
"Lonely Af" 2022 Whatever Feels Right
"Own Sh¡t"
"F*ck Love"
(với Anthony de la Torre)
"Be like You"
"This Body" 2023 Đĩa đơn không nằm trong album
"Falling Again" 2024
"The Code" 22 45
"—" chỉ một sản phẩm thu âm không được xếp hạng hoặc không được phát hành ở lãnh thổ đó.

Là nghệ sĩ hợp tác

[sửa mã nguồn]
Tựa đề Năm Album hoặc đĩa mở rộng
"Sheriff"
(Visu hợp tác với Nemo)
2016 Sex & Röschti
"Singer"
(Dodo [de] hợp tác với Nemo)
2017 Pfingstweid
"Legend"
(Stress hợp tác với Nemo)
2019 Sincèrement

Bài hát được xếp hạng khác

[sửa mã nguồn]
Tựa đề Năm Vị trí xếp hạng cao nhất Album hoặc đĩa mở rộng
SWI
[11]
"Ke bock" 2017 31 Momänt-Kids
"Kunstwärch" 90 Fundbüro

Giải thưởng và thành tích

[sửa mã nguồn]
Giải thưởng Năm Thể loại Tư cách đề cử Kết quả Ct.
Energy Star Night 2017 Energy Music Award Bản thân Đoạt giải [23]
Prix Walo Best Newcomer Đoạt giải [24]
Swiss Music Awards Best Talent Đoạt giải [25]
2018 Best Male Solo Act Đoạt giải [26][27]
Best Breaking Act Đoạt giải
Best Live Act Đoạt giải
Best Hit "Du" Đoạt giải
OUTmusic Award 2024 Eurovision Song of the Year "The Code" Đoạt giải [28]
Eurostory Award Best Lyrics Đoạt giải [29]

Tham khảo

[sửa mã nguồn]
  1. ^ Tuchschmid, Benno (14 tháng 10 năm 2016). “Dieser 17-jährige Zahnspangenträger wird der nächste Mundart-Rap-Star”. Aargauer Zeitung (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2016.
  2. ^ Vallicotti, Simona (2 tháng 2 năm 2016). “Nemo: Ein 16-Jähriger trocknet die Schweizer Rapszene ab” (bằng tiếng Đức). SRG SSR. Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2024.
  3. ^ Fox, Hilary (8 tháng 5 năm 2024). “Nemo, among the favorites at Eurovision, is finding acceptance onstage and off”. AP News (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2024.
  4. ^ “Switzerland wins Eurovision as chaos engulfs iconic song contest”. Sky News. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2024.
  5. ^ Pascoli, Andrea (11 tháng 5 năm 2024). “Chi è Nemo, la popstar della Svizzera icona della comunità Lgbtq+. Sul palco con la bandiera del genere non binario”. La Repubblica (bằng tiếng Ý). Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2024.
  6. ^ Hopf-Sulc, Adrian (8 tháng 5 năm 2024). “Ideenlabor Brainstore in Biel – Wie Nemos Eltern die schrägste Fabrik der Schweiz gründeten”. Der Bund (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2024.
  7. ^ Martino, Gaia (12 tháng 5 năm 2024). “Chi è Nemo, cantante della Svizzera e prima persona non binaria a vincere l'Eurovision Song Contest”. Fanpage.it (bằng tiếng Ý). Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2024.
  8. ^ Marzi, Mattia (12 tháng 5 năm 2024). “Nemo, chi è la star non binaria che ha vinto l'Eurovision”. Rockol (bằng tiếng Ý). Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2024.
  9. ^ Feller, Michael (2 tháng 3 năm 2024). “Vor «Sing meinen Song» und dem ESC – Was erhoffen Sie sich, Nemo? Den Sieg?”. Der Bund (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2024.
  10. ^ O'Connor, Roisin (11 tháng 5 năm 2024). “Meet Nemo, Switzerland's Eurovision 2024 entry”. The Independent (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2024.
  11. ^ a b c d “Nemo”. hitparade.ch (bằng tiếng Đức). Swiss Hitparade. Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2024.
  12. ^ Ascione, Arianna (11 tháng 5 năm 2024). “Chi è Nemo, il concorrente svizzero vincitore di Eurovision 2024”. Corriere della Sera (bằng tiếng Ý). Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2024.
  13. ^ “Nemo will perform 'The Code' in Malmö for Switzerland”. Eurovision.tv. EBU. 29 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2024.
  14. ^ Oltermann, Philip (11 tháng 5 năm 2024). “Switzerland wins Eurovision song contest after controversial grand final”. The Observer. ISSN 0029-7712. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2024.
  15. ^ Brady, Kate (12 tháng 5 năm 2024). “Switzerland wins politically-charged 2024 Eurovision Song Contest”. The Washington Post. ISSN 0190-8286. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2024.
  16. ^ Fischer, Martin (11 tháng 11 năm 2023). “Nemo im Interview – «Ich fühle mich weder als Mann noch als Frau»”. Tages-Anzeiger (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2023.
  17. ^ Mettler, Nemo [@nemothings] (11 tháng 11 năm 2023). “Hello friends”. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2023 – qua Instagram.
  18. ^ “Clownfisch EP - EP by Nemo (CH)”. Spotify. Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2024.
  19. ^ “Momänt-Kids - EP by Nemo (CH)”. Spotify. Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2024.
  20. ^ “Fundbüro - EP by Nemo (CH)”. Spotify. Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2024.
  21. ^ “Whatever Feels Right - EP by Nemo”. Spotify. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2024.
  22. ^ “2024 19-os savaitės klausomiausi (Top 100)” (bằng tiếng Litva). AGATA. 10 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2024.
  23. ^ “Das war die Energy Star Night 2017” [That was Energy Star Night 2017]. energy.ch (bằng tiếng Đức). NRJ. 16 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2024.
  24. ^ “44. Prix Walo”. prixwalo.ch (bằng tiếng Đức). Prix Walo. Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2024.
  25. ^ “Stein um Stein: Die Gewinner der Swiss Music Awards 2017” [Stone by stone: The winners of the Swiss Music Awards 2017]. srf.ch (bằng tiếng Đức). SRG SSR. 11 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2024.
  26. ^ “Swiss Music Awards 2018 - The Showacts and Nominees”. loadsofmusic.com (bằng tiếng Anh). 18 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2024.
  27. ^ “Swiss Music Awards 2018: alle Highlights, alle Gewinner” [Swiss Music Awards 2018: all highlights, all winners]. srf.ch (bằng tiếng Đức). SRG SSR. 10 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2024.
  28. ^ “Nemo wins the 2024 OUTmusic Award” (bằng tiếng Anh). OutTV. 6 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2024.
  29. ^ “Switzerland wins our Eurostory Best Lyrics Award 2024” (bằng tiếng Anh). eurostory.nl. 8 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2024.

Liên kết ngoài

[sửa mã nguồn]
Giải thưởng và thành tích
Tiền nhiệm:
Remo Forrer
với "Watergun"
Thụy Sĩ tại Eurovision Song Contest
2024
Kế nhiệm:
Hiện tại
Tiền nhiệm:
Thụy Điển Loreen
với "Tattoo"
Người chiến thắng Eurovision Song Contest
2024
Kế nhiệm:
Hiện tại
Một ví dụ về bài hát D&B với tiểu thể loại liquid D&B
DJ Dextrous, một người tiên phong trong những ngày đầu của nhạc jungle, đang thể hiện kỹ năng trong buổi biểu diễn ở Thụy Sĩ vào năm 2015.

Drum and bass (thường viết tắt là DnB, D&B, hoặc D'n'B) là một thể loại nhạc điện tử đặc trưng với các nhịp trống nhanh (thông thường 165–185 nhịp mỗi phút[4][5]) với các dòng âm basssub-bass mạnh,[6] samplesynthesizer. Thể loại âm nhạc này phát triển và tách ra từ dòng nhạc jungle ở Vương quốc Anh trong những năm 1990.[7]

Tham khảo

[sửa mã nguồn]
  1. ^ Butler, Mark J. (2006). Unlocking the groove: rhythm, meter, and musical design in electronic dance music. Bloomington Chesham: Indiana University. tr. 78. ISBN 9780253346629.
  2. ^ Cook, Jon (26 tháng 1 năm 2010). “A-Z of drum 'n' bass”. MusicRadar (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2024.
  3. ^ Reynolds, Simon (2013). Energy Flash: A Journey Through Rave Music and Dance Culture. Soft Skull Press. Whether they were black or white, or skinny lads from brum called combatant these artists reaffirmed drum and bass's place in an African continuum (dub, hip hop James Brown, etc...) whose premise constitute a radical break with Western music, classical and pop.
  4. ^ Bateman, Graeme (18 tháng 3 năm 2019). “A 10-step guide on how to remix drum 'n' bass”. Red Bull Music Academy (bằng tiếng Anh). Red Bull. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2023.
  5. ^ “Tempo and genre”. Ableton. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2023.
  6. ^ “Jungle/Drum'n'Bass”. AllMusic. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2023.
  7. ^ Murphy, Ben (4 tháng 1 năm 2018). “These are the drum 'n' bass sub-genres that you need to know”. Red Bull Music Academy. Red Bull. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2023.

Đọc thêm

[sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa mã nguồn]

Cảnh báo: Từ khóa xếp mặc định “Drum and bass” ghi đè từ khóa trước, “Code”.

Kế hoạch hồi sinh Shinji của Mio liên quan đến việc nuôi dưỡng Shinji trong bụng cô và biến anh thành Tinh linh giống cô. Tuy nhiên, cô biết rằng cơ thể con người của Shinji sẽ không thể chịu được nhiều sức mạnh như vậy, vì vậy cô bắt đầu phân chia sức mạnh của mình cho những cô gái sau này trở thành Tinh linh, để Shinji, người sẽ tái sinh thành Shido, hấp thụ sức mạnh đó và sẽ giống như Mio.

Ở hiện tại, Kurumi chết vì bị thương, Mio lấy tinh thể Sephira từ Kurumi và khôi phục ký ức của Shido từ kiếp trước, xác nhận rằng Shinji và Shido là cùng một người. Trên tàu Fraxinus, Reine tiết lộ mình chỉ là một phần khác của Mio, được cử đến để quan sát quá trình thu thập sức mạnh của các Tinh linh của Shido. Mio và Reine kết hợp thành một người duy nhất, người muốn Shido cùng cô bên nhau mãi mãi. Tuy nhiên, Shido kinh hoàng khi chứng kiến mức độ nhẫn tâm của Mio để phục vụ mục tiêu của cô; Tohka, Kaguya và Yuzuru cố gắng bảo vệ anh, nhưng Mio đã dịch chuyển anh đến một nơi trú ẩn dưới lòng đất cùng với các học sinh khác của trường trung học Raizen để ngăn anh khỏi bị thương.

Mio sử dụng Thiên sứ của mình, Ain Soph Aur, để tỏa ra một trường năng lượng khổng lồ nhằm vô hiệu hóa quân đội Nibelcolle và làm mất khả năng chiến đấu của một số chiến binh của cả hai bên, bao gồm cả Okamine Mikie. Origami bảo Kusakabe hãy ẩn náu trong Fraxinus trong khi các Tinh linh tiếp tục giúp đỡ Shido. Trong khi đó, Woodman cố gắng giải thích với Ellen, người vẫn còn tức giận vì Woodman đã phản bội cô và Westcott, đồng thời mang theo em gái Karen của cô. Woodman thừa nhận anh không bao giờ muốn làm tổn thương tình cảm của bạn bè mình, nhưng khi xem Tinh linh Khởi nguyên lần đầu tiên, anh thấy mình không thể sử dụng cô để phục vụ mục tiêu của họ, và Karen tự nguyện đi theo anh.

Bất chấp đã nỗ lực hết sức, Tohka, Kaguya và Yuzuru không thể xuyên thủng hàng rào phòng thủ của Mio, Mio đã giết Kaguya và lấy đi Sephira của cô, khiến Yuzuru vô cùng kinh hãi. Shido giải thích với các bạn cùng trường rằng Tohka và các Tinh linh đang gặp rắc rối, cần phải đến giúp họ, và các bạn của anh đồng ý đánh lạc hướng Giáo sư Okamine trong khi anh rời khỏi nơi trú ẩn và quay trở lại chiến trường. Anh thấy Westcott đã đợi sẵn và hắn chuẩn bị chiến đấu để xem ai thực sự xứng đáng có được sức mạnh của các Tinh linh.