Bước tới nội dung

HMS Burges (K347)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Anh Quốc
Tên gọi HMS Burges (K.347)
Xưởng đóng tàu Xưởng hải quân Boston, Boston, Massachusetts
Đặt lườn 8 tháng 12, 1942
Hạ thủy 26 tháng 1, 1943
Nhập biên chế 2 tháng 6, 1943
Xóa đăng bạ 28 tháng 3, 1946
Tình trạng
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu
Kiểu tàu Tàu frigate
Trọng tải choán nước
  • 1.140 tấn Anh (1.160 t) (tiêu chuẩn);
  • 1.430 tấn Anh (1.450 t) (đầy tải)
Chiều dài
  • 283 ft 6 in (86,41 m) (mực nước);
  • 289 ft 5 in (88,21 m) (chung)
Sườn ngang 35 ft (11 m)
Mớn nước 10 ft (3,0 m)
Công suất lắp đặt 6.000 hp (4.500 kW)
Động cơ đẩy
Tốc độ 19 kn (22 mph; 35 km/h)
Tầm xa 4.150 nmi (4.780 mi; 7.690 km) ở vận tốc 12 kn (14 mph; 22 km/h)
Số tàu con và máy bay mang được
  • xuồng săn cá voi 27 foot (8,2 m) kiểu Hải quân Anh
  • xuồng tiêu chuẩn kiểu Hải quân Mỹ
Thủy thủ đoàn tối đa 175
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Radar kiểu SA & SL
  • Sonar Kiểu 128D hoặc Kiểu 144
  • Ăn-ten định vị MF
  • Ăn-ten định vị cao tần Kiểu FH 4
Vũ khí

HMS Burges (K347) là một tàu frigate lớp Captain của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như là chiếc BDE-12, một tàu hộ tống khu trục lớp Evarts, và chuyển giao cho Anh Quốc theo Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Anh được đặt tên theo Đại tá Hải quân Richard Rundle Burges, (1754-1797), người từng tham gia các cuộc Chiến tranh Cách mạng Hoa KỳChiến tranh Cách mạng Pháp.[1] Nó đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc tại Châu Âu, hoàn trả cho Hoa Kỳ năm 1945 nhưng rút biên chế và xóa đăng bạ ngay sau đó, và cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1946.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Những tàu frigate lớp Captain thuộc phân lớp Evarts có chiều dài chung 289 ft 5 in (88,21 m), mạn tàu rộng 35 ft 1 in (10,69 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 8 ft 3 in (2,51 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.140 tấn Anh (1.160 t); và lên đến 1.430 tấn Anh (1.450 t) khi đầy tải. Hệ thống động lực bao gồm bốn động cơ diesel General Motors Kiểu 16-278A nối với bốn máy phát điện để vận hành hai trục chân vịt; công suất 6.000 hp (4.500 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 21 kn (24 mph; 39 km/h), và có dự trữ hành trình 4.150 nmi (4.780 mi; 7.690 km) khi di chuyển ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[2]

Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội 1,1 inch/75 caliber bốn nòng và chín pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[2]

Cái tên Burges nguyên được dự định đặt cho chiếc BDE-16, cũng là một tàu hộ tống khu trục lớp Evarts; và được đặt lườn tại Xưởng hải quân Mare Island, ở Vallejo, California vào ngày 14 tháng 3, 1942. Nó được hạ thủy vào ngày 26 tháng 9, 1942, và được đỡ đầu bởi bà Ann Bennett Wichels.[3] Tuy nhiên kế hoạch chuyển giao bị hủy bỏ khi Hoa Kỳ quyết định giữ lại con tàu và đổi tên thành USS Edgar G. Chase (DE-16). Do đó cái tên Burges được chuyển sang chiếc BDE-12.

BDE-12 được đặt lườn tại Xưởng hải quân BostonBoston, Massachusetts vào ngày 8 tháng 12, 1942; nó được hạ thủy vào ngày 26 tháng 1, 1943. Con tàu được chuyển giao cho Anh vào ngày 2 tháng 6, 1943, mang ký hiệu lườn K347,[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Anh dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Harold Hill.[4]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong quá trình phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh, Burges hoạt động trong vai trò chính là hộ tống các đoàn tàu vận tải vượt Đại Tây Dương vào các năm 19431944, rồi đến giai đoạn cuối Thế Chiến II đã hoạt động tại khu vực eo biển Manche.[1]

Sau khi chiến tranh kết thúc tại Châu Âu, con tàu được hoàn trả cho Hoa Kỳ tại thành phố New York vào ngày 27 tháng 2, 1946, nhằm giảm bớt chi phí mà Anh phải trả cho Hoa Kỳ trong Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Con tàu được xem là dư thừa đối với Hải quân Hoa Kỳ khi chiến tranh đã kết thúc, nên tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 28 tháng 3, 1946, và con tàu được bán cho hãng George H. Nutman, Inc. tại Brooklyn, New York vào tháng 11, 1946 để tháo dỡ. Công việc tháo dỡ bắt đầu từ ngày 31 tháng 7, 1947.[1]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Burges. Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command. ngày 24 tháng 6 năm 2015.
  2. ^ a b c “DE-12/HMS Burges (K.347)”. NavSource.org. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2021.
  3. ^ Naval Historical Center. “Edgar G. Chase (DE-16)”. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2021.
  4. ^ Helgason, Guðmundur. “HMS Burges (K 347)”. Uboat.net. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2021.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]